Nông sản Việt – Hướng đi sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường tỷ dân
Phát triển cả thị trường trong nước lẫn xuất khẩu, biết tìm ra sản phẩm riêng, thế mạnh là những yếu tố giúp nâng cao năng lực sản xuất, chế biến.
Xây đường cao tốc, hội nhập kinh tế thế giới
Khắc phục những tồn tại, khơi thông dòng chảy ra biển lớn
Nâng hiệu quả thực thi Hiệp định SPS: Xây dựng nhận thức từ cấp cơ sở
Bà Phạm Thị Hà Anh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Lương thực Bình Minh. Ảnh: Bảo Thắng.
Xác định hướng đi chính là xuất khẩu nông sản Việt ra thế giới, Công ty CP Lương thực Bình Minh đã có định hướng gì để thích ứng với những yêu cầu ngày càng cao của thị trường?
Trong định hướng phát triển của công ty, tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tìm kiếm khách hàng là vấn đề chúng tôi đặt lên hàng đầu. Đó luôn là trở ngại lớn nhất bởi con đường tìm đầu ra cho hàng hóa không chỉ phụ thuộc thị trường trong nước mà còn phải cạnh tranh với nhiều quốc gia nông nghiệp trong khu vực như Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Myanmar hay xa hơn như Ấn Độ, Israel.
Ngay cả khi tìm được người có nhu cầu, chưa chắc công ty đã đạt yêu cầu của họ về chỉ tiêu chất lượng sản phẩm; hoặc khi tìm đúng nhu cầu rồi nhưng công ty gặp rào cản về điều kiện thanh toán, cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc; thậm chí giá cả hàng hóa lên xuống nên chúng tôi không thể đạt thỏa thuận lâu dài do nông sản gặp vấn đề về mùa vụ, thời tiết.
Vì thế, tự nâng cao năng lực, nhận thức cũng là một yếu tố cần chú trọng. Trên quan điểm, dân ta chưa biết hết sản vật của ta thì sao Tây biết mà mua, chúng tôi nhận thấy thương hiệu nông nghiệp trong nước chưa được chú trọng đúng mức. Ví dụ, thương hiệu gạo ST 25, bia Sài Gòn, nước mắm Phú Quốc, bánh đậu xanh Hải Dương… tất cả đều gặp vấn đề khi ra nước ngoài. Ngay cả trong nước, xoài Cát Chu, mít Tố Nữ vùng nào, hiếm ai biết ngọn ngành, trừ người tại vùng sản xuất.
Nâng cao năng lực chế biến nông sản là một trong những trở ngại khiến nông sản Việt gặp trở ngại khi ra quốc tế. Từ kinh nghiệm thực tế, xin bà cho biết những vấn đề của nền sản xuất, chế biến nông sản Việt lúc này?
Việt Nam có nhiều hạn chế trong khâu biến một sản phẩm thô đến sản phẩm tinh cho người tiêu dùng cuối cùng có thể mua được. Chúng ta trồng nhiều loại gạo ngon, rau củ quả tốt, lạ, chưa có nhiều nước trồng hoặc hiếm, nhưng khâu chế biến lại chênh lệch so với khâu sản xuất trên đồng ruộng.
Nếu đánh thang điểm là: Trên đồng ruộng sản xuất được 8/10 điểm thì chế biến đến sản phẩm cuối theo tôi hiện chỉ đạt 4/10. Vậy 4 điểm chênh lệch kia là gì, biến đâu mất?
Một là quy hoạch vùng nguyên liệu chưa tốt. Tâm lý sản xuất của người dân nhiều nơi vẫn là “thấy người ta ăn khoai, mình cũng vác mai đi đào”. Có vùng trồng thấy thu tốt một sản phẩm, thì vùng lân cận lại bỏ sản phẩm thế mạnh để ăn theo ngắn ngày. Thế là ai ai cũng trồng một loại cây, nuôi một loại con ấy.
Hai là quy hoạch sản phẩm không theo nhu cầu thị trường đầu ra. Người dân nhiều nơi không biết có bán được sản phẩm không; người định hướng trồng cũng không chắc làm công tác nghiên cứu thị trường trước khi quy hoạch; năng lực của đội ngũ chế biến sau thu hoạch có đủ để xử lý hàng tồn kho hay không.
Ba là liên kết thông tin. Hiện người dân ít liên kết với nhà xuất khẩu, bán lẻ; người làm chính sách không liên kết với nhu cầu của thị trường và không tính toán được mức tiêu thụ trên cơ sở dân số. Ví dụ một tỉnh có 5 triệu dân, mỗi người tiêu thụ 1kg rau/người/ngày. Vậy cả tỉnh cần 5.000 tấn rau, nếu trồng 10.000 tấn thì thừa. Nếu vụ mùa bội thu mùa thì khả năng dư thừa rất cao, trong khi bán cho tỉnh khác thì không biết tỉnh bạn có trồng không.
Bốn là nền tảng sản xuất gồm thiết bị, nhà xưởng, công nghệ, thương hiệu thiếu đồng bộ. Chẳng hạn, vùng vải thiều Bắc Giang, Hải Dương nếu đầu tư nhà máy làm vải đóng hộp, thì một năm chỉ hoạt động 3 tháng. 9 tháng còn lại cần phải xác định chế biến gì, nguồn nguyên liệu ở đâu. Ngoài ra, công nghệ đóng gói chủ yếu là thủ công. Ngay cả khi bỏ tiền đầu tư, doanh nghiệp cũng trăn trở về bài toán nguyên liệu để làm gì vụ kế tiếp.
“Nông sản Việt Nam có đầy đủ điều kiện và được chào đón ở nhiều thị trường, chứ không riêng gì những thị trường như Trung Quốc hay châu Phi”, bà Hà Anh nói.
Nông sản Việt có tiềm năng và dư địa thị trường lớn, cả trong lẫn ngoài nước. Ảnh: TL.
Theo thống kê, 60% lượng nông sản được tiêu thụ trong nước. Phần lớn trong số này được tiêu thụ ở các chợ đầu mối, nơi khó kiểm soát các vấn đề như chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm hay truy xuất nguồn gốc. Bà có lời khuyên gì tới cả người sản xuất lẫn phía người tiêu dùng để thay đổi thói quen này, trong bối cảnh ngành nông nghiệp đang đặt mục tiêu nâng cao chất lượng cho thị trường trong nước?
Tôi kể một thực tế như này. Năm ngoái, vải thiều được mùa, được giá, ước khoảng 25.000 đồng/kg, nhưng vải xuất khẩu tôi đang phải mua lên tới 140.000 đồng/kg. Nếu tính cả chi phí bao bì, công đóng gói… giá sản phẩm gấp 10 lần hàng nội địa.
Do đó, để tăng lợi nhuận cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm cho thị trường nội địa, bà con nông dân nên chuyển đổi tư duy. Lúc nào cũng phải nghĩ là sản phẩm mình làm ra đủ sức tiêu thụ ở những thị trường khó tính. Có như vậy, chúng ta mới có thể làm ít, hưởng nhiều, còn hơn làm nhiều quá mà lãi không nhiều, rồi thi thoảng ế và phải chờ hỗ trợ tiêu thụ.
Khi quen với tư duy làm với nước ngoài, người sản xuất không chỉ chuẩn về số lượng, chất lượng, mà còn không bị động trong sản xuất. Riêng điều đó đã là một thắng lợi. Nói vậy không có nghĩa là bỏ qua thị trường trong nước, mà chúng ta nên tìm sự khác biệt trong phương thức canh tác. Ví dụ, vùng lân cận trồng xoài thì mình trồng na, họ trồng cà chua đỏ mình trồng cà chua tím. Không trồng quả thì trồng hoa xuất khẩu, cây giống xuất khẩu. Tóm lại, là rất nhiều hướng suy nghĩ nếu chúng ta định hướng sản xuất để phục vụ thị trường 8 tỷ dân của thế giới.
Làm nông nghiệp rất vất vả, gian lao, khó khăn, đầu tư lớn mà lãi thì khó nhìn thấy. Nhiều doanh nghiệp lớn cũng lao đao trước những cú sốc của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần phải nghĩ rằng không có điện thoại thông minh vẫn sống được, nhưng nếu không có lương thực thì con người sẽ không thể tồn tại. Nước nào cũng phát triển công nghiệp, trong khi Việt Nam được ưu đãi về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thì mình cần phát huy tối đa thế mạnh. Quan tâm đến doanh nghiệp sản xuất lương thực cũng là một chiến lược của đất nước.
Với người tiêu dùng, tôi nghĩ đơn giản thế này. Nếu nông sản Việt tốt, đẹp, rẻ, có thương hiệu toàn cầu, truy xuất được nguồn gốc, thì không cớ gì chúng ta phải mua hàng nhập khẩu. Thói quen tiêu dùng là do trình độ sản xuất quyết định; nhưng tôi tin người Việt nào mà chẳng yêu nước, ai cũng có niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Sản phẩm mình làm ra, và không thua kém hàng nhập khẩu thì bà con sẽ tự biết mà tìm tới.
Công ty Bình Minh xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp, trong đó mạnh nhất là nhóm ngành gạo, lương thực như bún, mì, miến, phở, gia vị và hoa quả.
Với địa bàn xuất khẩu 59 quốc gia trên thế giới, dải thị trường bao phủ từ khó tính đến dễ tính, bình dân đến cao cấp, công ty chủ trương quảng bá, tuyên truyền cho người dân sở tại biết đến sự có mặt của nông sản Việt.