Xuất khẩu trái cây, rau củ và hoa hướng đến mục tiêu 10 tỷ USD mỗi năm trước năm 2025: cơ hội và một giải pháp đột phá cho khu vực nông thôn miền núi.
Thực tiễn đang chỉ ra nhóm sản phẩm mới có tiềm năng đột phá trong xuất khẩu và nâng cao thu nhập cho nông dân, nhất là nông dân khu vực nông thôn và miền núi, đó là xuất khẩu quả-rau-hoa đã vượt qua xuất khẩu dầu thô và gạo.
Năm 2016 là năm đầu tiên ghi nhận việc mặt hàng quả-rau-hoa xuất khẩu đã đạt 2,45 tỷ USD, vượt qua xuất khẩu dầu thô là 2,4 tỷ USD và gạo là 2,16 tỷ USD. Chín tháng đầu năm 2017, xuất khẩu quả-rau-hoa đạt 2,62 tỷ USD, lớn hơn 2,2 tỷ USD của xuất khẩu dầu thô và 2,04 tỷ USD của xuất khẩu gạo. Như vậy, quả-rau-hoa đã trở thành một lợi thế cạnh tranh xuất khẩu quốc tế của Việt Nam. Dự báo giá trị xuất khẩu quả-rau-hoa năm 2018 sẽ vượt giá trị xuất khẩu gạo thời điểm cao nhất (3,67 tỷ USD năm 2012) và trước năm 2025 sẽ vượt mốc 10 tỷ USD/năm – giá trị xuất khẩu dầu thô cao nhất của nước ta (10,4 tỷ USD năm 2008).
Những con số trên đây phản ánh nhu cầu quả-rau-hoa trên thế giới và các sản phẩm này của Việt Nam còn tiềm năng phát triển rất lớn, được khách hàng yêu thích, lựa chọn, đồng thời mở ra một hướng thoát nghèo và từng bước làm giàu cho nông dân khu vực nông thôn-miền núi.
Thu nhập của phần lớn người nông dân sinh sống ở khu vực nông thôn, miền núi nước ta thấp hơn khá xa so với khu vực thành thị và việc thu hẹp khoảng cách giữa 2 vùng nếu giữ cách làm như hiện nay thì sẽ còn kéo dài rất lâu. Năm 1999, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn là 225.000 đồng/người, bằng 44% thu nhập bình quân đầu người ở thành thị (516.000 đồng/người). Đến 2016 là 2,44 triệu đồng/người, bằng 55,8% thu nhập đầu người ở thành thị (4,4 triệu đồng/người).
Như vậy, qua 17 năm (1999-2016), khoảng cách thu nhập đầu người của nông thôn so với thành thị bình quân giảm 0,72%/năm và giữa trung du-miền núi phía bắc so với thành thị giảm 0,34%/năm. Thông tin từ cuộc Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 cho thấy điều kiện sống của một bộ phận người dân ở khu vực nông thôn còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, nhất là dân cư vùng núi.
Năm 2016, khu vực nông thôn còn 124.800 hộ chưa sử dụng điện, chiếm 0,8% tổng số hộ; 1,2 triệu hộ chưa có ti vi, chiếm 7,5% tổng số hộ; tỷ lệ hộ không có nhà tắm chiếm 8,4%; tỷ lệ người dân chưa có bảo hiểm y tế là 23,6% dân số. Theo số liệu, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước còn khoảng 9,9%, cận nghèo còn 5,22%, có những huyện hộ nghèo chiếm tỷ lệ trên 70% và đáng chú ý con số 86% hộ nghèo là nghèo về thu nhập.
Nếu tốc độ thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị trong thời gian tới như bình quân 17 năm vừa qua (0,72%/năm) thì để thu nhập nông thôn bằng 2/3 của thành thị sẽ cần 15 năm nữa, còn để đạt được 80% thu nhập thành thị thì cần 33 năm nữa. Nếu tốc độ thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa trung du-miền núi phía bắc và thành thị sắp tới như bình quân 17 năm qua (0,34%/năm) thì để thu nhập vùng này bằng 2/3 của thành thị sẽ cần 59 năm nữa.
Những tính toán giả định này cho thấy, để tăng thu nhập nhanh hơn cho người dân ở nông thôn-miền núi, cần tìm kiếm các giải pháp mới hiệu quả hơn để phát triển sản xuất ở nông thôn và miền núi. Xét trên quy mô quốc gia, hơn 30 năm qua, phát triển công nghiệp và dịch vụ là con đường chủ yếu để tăng quy mô nền kinh tế, là xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc sau 30 năm đổi mới, thu nhập vùng nông thôn vẫn chỉ bằng 55,8% thu nhập thành thị, vùng trung du – miền núi phía bắc chỉ bằng 46,5% thu nhập thành phố và nếu không có các giải pháp mới, đột phá thì phải mất 10-15 năm nữa thì thu nhập nông thôn mới bằng 2/3 thu nhập thành thị và đối với vùng trung du-miền núi phía bắc phải hàng chục năm nữa.
Cần hỗ trợ và giúp đỡ cho nhà nông để xuất khẩu quả-rau-hoa, Việt Nam vươn tới mục tiêu 10-15 tỷ USD vào năm 2025.
Để biến thời cơ, tiềm năng quả-rau-hoa trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam trong 10 năm tới, nâng cao thu nhập đáng kể cho nông dân ở nông thôn và miền núi, chúng tôi đề xuất 2 giải pháp chủ yếu:
1. Đưa nhóm sản phẩm quả-rau-hoa vào chương trình phát triển sản phẩm quốc gia 2017-2020 và sau đó, để có các giải pháp đồng bộ, khoa học, hiệu quả để nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất và tối ưu hóa quy trình sản xuất, cung cấp giống có chất lượng cao, tiếp thị quốc tế, xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống phân phối.
2. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm sản xuất và tiêu thụ các loại quả, rau và hoa chủ yếu đã xuất khẩu thành công thời gian qua cần phổ biến rộng rãi các mô hình hợp tác xã kiểu mới để hỗ trợ và liên kết nông dân trồng các loại quả, rau và hoa xuất khẩu, liên kết với các doanh nghiệp trong việc cung ứng đầu vào và tiêu thụ sản phẩm.
Tỉnh Sơn La hiện có hơn 37.000 ha cây ăn quả, sản lượng đạt gần 200.000 tấn/năm và 10.000 ha trồng rau. Các HTX kiểu mới là mô hình chủ yếu để phát triển các vùng cây ăn quả và rau sạch.
Nhiều tỉnh như Hòa Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Lâm Đồng đã xác định và phát triển thành công các loại quả, rau, hoa trở thành sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương, xuất khẩu ngày càng tăng.
Phát triển quả-rau-hoa trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực của đất nước trong 10 năm tới cho phép phát huy các lợi thế tự nhiên là đất đai, khí hậu đặc thù của từng tỉnh, không phụ thuộc vào quy mô đất canh tác.